Tiến sĩ Vũ Khâm Lân, quê phường Tân Hưng (TP Hải Phòng), là bậc hiền tài có nhiều công lao với đất nước và nhân dân, được triều Lê ban tặng nhiều sắc phong.
Tuổi thơ cơ cực
Một dịp tình cờ về tổ dân phố Ngọc Lặc, phường Tân Hưng, tôi được nghe hậu duệ của tiến sĩ Vũ Khâm Lân cung cấp nhiều thông tin quý về ông.
Vũ Khâm Lân (1703 - 1758), tên là Vũ Khâm Thận, hiệu Di Trai, quê ở xã Ngọc Lặc, tổng Mỹ Xá, huyện Tứ Kỳ, trấn Hải Dương (nay là tổ dân phố Ngọc Lặc, phường Tân Hưng).
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống đỗ đạt, làm quan. Gia phả dòng họ của Vũ Khâm Lân cho thấy truyền thống ấy bắt đầu từ đời thứ 3 (tính từ ông thủy tổ của dòng họ này. Trong đó, Vũ Khâm Lân là đời thứ 10).

Tượng thờ Tiến sĩ Vũ Khâm Lân ở phường Tân Hưng, thành phố Hải Phòng
Về tuổi trẻ của Vũ Khâm Lân, hiện nay rất ít tư liệu đề cập đến. Thiên “Nguyễn ca kĩ” trong tập truyện ký mang tính truyền kỳ “Lan Trì kiến văn lục” của Vũ Trinh viết: “Ông sinh ra dĩnh ngộ, khác thường; đọc sách làm văn, dạy một lần là hiểu ngay”.
Ông Vũ Văn Thung, trưởng tộc của Vũ tộc bát chi, tổ dân phố Ngọc Lặc cho biết: “Truyền ngôn trong dòng họ Vũ ở Ngọc Lặc, phường Tân Hưng, Vũ Khâm Lân từ 5 tuổi đã biết làm thơ Nôm”. Tuy nhiên, hoàn cảnh của ông khá éo le, ngang trái. Ông và em ruột phải sống với mẹ kế và 6 người em cùng cha khác mẹ. Mẹ kế quá cay nghiệt chỉ lo cho con ruột của mình, còn cha ông thì hiền lành, không bảo vệ được con nên ông bị chèn ép và ngược đãi. Ông bị bắt phải bỏ học đi cắt cỏ, chăn trâu. Năm 15 - 16 tuổi, do mẹ kế đối xử ngày càng tệ bạc, ông bỏ nhà đi phiêu bạt. Sau ông đến sinh sống và học trọ tại xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, kinh đô Thăng Long (nay là phường Cầu Giấy, Hà Nội). Vừa đi làm thuê, vừa theo học ở lớp học của một vị cử nhân. Tại đây, ông chăm chỉ rèn luyện và học hành, tạo đà cho sự nghiệp về sau.
Đại khoa hay chữ
Tại khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông, Vũ Khâm Lân đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Sau khi đỗ đạt, ông giữ các chức quan cấp sự trung. Sau đó được điều chuyển Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam.
Từ năm 1739, để đối phó với phong trào nổi dậy diễn ra ở nhiều địa phương Đàng Ngoài, triều đình Lê - Trịnh đã điều động phần lớn quan lại (kể cả các bậc đại khoa) và quân lính tham gia trấn áp. Trong thời gian này, Vũ Khâm Lân được bổ nhiệm, thuyên chuyển kiêm giữ nhiều chức vụ hoặc làm các công việc có liên quan đến việc quân.

Hằng năm, vào ngày 20/8 âm lịch, dòng họ Vũ lại tổ chức lễ giỗ tưởng nhớ công ơn tiền nhân, phát huy truyền thống hiếu học cho con cháu đời sau
Năm 1746, Vũ Khâm Lân được thăng chức Hữu thị lang bộ Lại, ban tước Hầu. Cũng trong năm này, ông được thăng làm Tham tụng ở Phủ đường chúa Trịnh. Ở triều, ông dự bàn chính sự, ra ngoài giữ việc binh cơ lập không ít công lao, được cử đi sứ nhà Thanh. Năm 1756, ông được thăng chức Bồi tụng Đô ngự sử, tước Quận công.
Vũ Khâm Lân có tiếng là người hào hiệp, khẳng khái, dám nói dám làm, không a dua kẻ quyền quý. Bởi vậy, ông bị những người giữ chức vụ thời bấy giờ ganh ghét.
Ông còn nổi tiếng là vị đại khoa hay chữ, có tài văn chương. Ông đã góp thêm nhiều truyện mới vào cuốn “Lĩnh Nam chích quái”, soạn và cho khắc bia bài “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” nói về cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng ở đền thờ vị danh sĩ này, viết bài khen “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Vũ Khâm Lân để lại nhiều tác phẩm như “Phủ Sát bí mật” nhưng bị thất truyền…
Mối tình với cô đào xinh đẹp
Xung quanh vị tiến sĩ này còn được người đời kể lại một chuyện tình, dù lãng mạn nhưng cũng éo le bậc nhất trong tình sử nước nhà.
Thời gian ông vừa làm thuê vừa học ở đất kinh thành, năm ấy, làng Dịch Vọng mở hội. Làng mời đào nương Diễm Hương trẻ đẹp, hát hay có tiếng trong vùng đến diễn. Người xem hát kín vòng trong, vòng ngoài.

Nhà thờ Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tại tổ dân phố Ngọc Lặc trở thành địa chỉ đỏ cho nhiều thế hệ học sinh tới tham quan, tìm hiểu lịch sử
Như nhiều thanh niên trai tráng đến xem hội, chàng học trò nghèo Vũ Khâm Lân đã si mê nhan sắc cô đào Diễm Hương từ cái nhìn đầu tiên. Không có tiền để thưởng cho cô đào, Khâm Lân chỉ đứng nép bên cột đình lẳng lặng xem. Lúc cô đang hát, bỗng có ánh đuốc lớn chiếu qua phía Vũ Khâm Lân đứng, khiến nàng bắt gặp ánh mắt chàng. Chuyện tình giữa 2 người có nhiều kỷ niệm đậm sâu từ đó.
Năm 1727, Vũ Khâm Lân thi đỗ tiến sĩ. Ông mong muốn tìm cô đào Diễm Hương để nên duyên nhưng bị gia đình ngăn cản. Cha mẹ ép ông làm rể cho một gia đình phú hộ.
20 năm sau, tình cờ gặp lại, mong muốn chuộc lỗi, ông xin đưa nàng và mẹ già về nuôi, nhưng được một thời gian mẹ Diễm Hương mất, nàng cũng tạ từ ra đi.
Phát lộ mộ quan tiến sĩ
Vũ Khâm Lân mất ngày 20/8 âm lịch. Triều đình truy tặng ông chức Thượng thư Binh bộ.
Theo người dân Ngọc Lặc, tại cánh đồng làng xưa có một gò đất cao, gọi là đống Quan Lặc. Vì sao gọi là đống Quan Lặc thì không ai biết rõ, chỉ tương truyền rằng đây là nơi an táng của một vị quan nên được gọi là đống Quan, còn Lặc là cách gọi ghép tên làng.
Năm 1953, thực dân Pháp đóng bốt Bỉnh Di, đống Quan Lặc cách bốt khoảng 50m. Để thuận tiện cho việc quan sát và tránh bị Việt Minh ẩn nấp tấn công, quân giặc đã san phẳng khu vực đống Quan Lặc.
Vào năm 1987, một gia đình ở thôn Mỗ Đoạn (cách khu vực đống Quan Lặc xưa khoảng 200m) đào ao. Thợ lái máy xúc đã đào thấy một số mảnh quan tài, một phần thi hài và một số đồ tùy táng cùng một tấm bia đá.
Sau khi nhờ người dịch, biết là của Tiến sĩ Vũ Khâm Lân, gia đình người này đã liên hệ với dòng họ Vũ ở Ngọc Lặc. Đại diện dòng họ đã xin chuyển toàn bộ phần mộ về an táng tại nghĩa trang địa phương.
Tấm bia đá dựng ốp vào tường trên phần mộ. Trên bia có khoảng 70 chữ (một số chữ đã bị mờ), có nội dung: “Triều Lê, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727) - Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Nhập thị tham tòng phụng Chánh sứ ngự sử, Đài đô ngự sử, kiêm Tả chánh ngôn Quốc sử Tổng tài Ôn Quận công, được phong tặng làm Binh bộ Thượng thư, ban tên Thụy là Mẫn Đạt Vũ Tướng quốc, hiệu Di Trai tiên sinh; mộ táng tại Quan Sơn, xã Bỉnh Di...”.
Tại nơi ông ra đời còn lưu giữ 2 ngôi nhà được hậu duệ giữ gìn. Một là nhà ngang với chiếc giường gọi bằng tên cổ là “sàng”. Đây là một bằng chứng về sự liêm khiết của ông.
Ngôi nhà chính được trùng tu thành nhà thờ, còn giữ nguyên cột, vì kèo cũ. Trên bàn thờ là bức đại tự gồm 4 chữ “Nho trung lương tướng” (tướng giỏi trong làng nho) do vua ban tặng.
Ngày nay, tại tổ dân phố Ngọc Lặc vẫn còn nhà thờ Tiến sĩ Vũ Khâm Lân cùng hệ thống di vật bia ký, đại tự, câu đối cổ và 19 đạo sắc phong. Hằng năm, vào ngày 20/8 âm lịch, dòng họ Vũ lại tổ chức cúng giỗ tưởng nhớ tới công ơn tiền nhân và không ngừng phấn đấu noi gương Tiến sĩ Vũ Khâm Lân - vị đại khoa hay chữ và hết lòng vì nước.
Theo Báo Hải Phòng